Scholar Hub/Chủ đề/#chẩn đoán di truyền tiền làm tổ/
Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD) là kỹ thuật y học tiên tiến, giúp phát hiện bất thường di truyền trên phôi thai trong thụ tinh ống nghiệm (IVF). Ra mắt cuối thập niên 1980, PGD giúp giảm nguy cơ di truyền, tăng tỷ lệ thành công IVF và giảm lo lắng cho các bậc phụ huynh. Quy trình PGD gồm: chuẩn bị/lấy mẫu, phân tích di truyền bằng FISH/PCR, và chọn phôi. Dù có ưu điểm, PGD cũng gây tranh cãi về đạo đức, chi phí cao và nguy cơ sai sót. Cân nhắc kỹ lưỡng khi áp dụng là cần thiết.
Chẩn Đoán Di Truyền Tiền Làm Tổ (PGD): Khái Niệm và Tầm Quan Trọng
Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Diagnosis - PGD) là một kỹ thuật y học tiên tiến, được sử dụng nhằm phát hiện các bất thường di truyền trên phôi thai trong giai đoạn sớm của quá trình thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Điều này giúp các cặp vợ chồng có yếu tố nguy cơ di truyền tránh việc sinh ra những đứa trẻ mang bệnh lý di truyền.
Lịch Sử và Phát Triển của PGD
Kỹ thuật PGD lần đầu tiên được áp dụng vào cuối thập niên 1980. Công nghệ này đã không ngừng phát triển, nhất là nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ sinh học và di truyền học. Từ việc chỉ phát hiện các rối loạn liên quan đến nhiễm sắc thể giới tính, giờ đây PGD có thể nhận diện nhiều bệnh di truyền đơn gen và bất thường nhiễm sắc thể.
Quy Trình Thực Hiện PGD
Quá trình PGD thường bao gồm ba bước chính:
- Chuẩn Bị và Lấy Mẫu: Phôi thai được tạo ra thông qua IVF. Sau khi phát triển đến giai đoạn có từ 6 đến 8 tế bào, một hoặc hai tế bào sẽ được tách ra để xét nghiệm.
- Phân Tích Di Truyền: Các tế bào được phân tích di truyền để tìm kiếm các bất thường. Phương pháp phổ biến nhất là kỹ thuật FISH (Fluorescence In Situ Hybridization) và PCR (Polymerase Chain Reaction).
- Chọn Lọc và Chuyển Phôi: Những phôi không mang bất thường di truyền sẽ được chọn để chuyển vào tử cung của người mẹ.
Ưu Điểm của PGD
PGD mang lại nhiều lợi ích đáng kể, bao gồm:
- Giảm Nguy Cơ Di Truyền: Giúp tránh việc sinh ra trẻ em mắc các bệnh di truyền hiểm nghèo như xơ nang, bệnh Huntington, và bệnh máu khó đông.
- Tăng Tỷ Lệ Thành Công của IVF: Chọn phôi khỏe mạnh có thể cải thiện khả năng thành công của quá trình IVF.
- Giải Tỏa Căng Thẳng Tinh Thần: Giảm lo lắng cho các bậc phụ huynh có tiền sử bệnh lý di truyền.
Những Thách Thức và Tranh Cãi Liên Quan Đến PGD
Dù mang lại nhiều lợi ích, PGD cũng đối mặt với một số thách thức và tranh cãi, chẳng hạn như:
- Đạo Đức và Luân Lý: Việc lựa chọn và loại bỏ phôi thai dựa trên kết quả di truyền gây ra nhiều tranh cãi về đạo đức và xã hội.
- Chi Phí Cao: Quy trình này có thể khá tốn kém, không phải gia đình nào cũng có khả năng chi trả.
- Nguy Cơ Sai Lầm: Mặc dù hiếm khi xảy ra, nhưng vẫn có khả năng xảy ra sai sót trong quá trình chẩn đoán.
Kết Luận
Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ là một công cụ mạnh mẽ trong tay các chuyên gia y tế, giúp ngăn ngừa các bệnh di truyền và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này cần được cân nhắc kỹ lưỡng về mặt đạo đức và tài chính.
The first step evaluation of preimplantation genetic screening in human embryos at IVF Centre of NHOGMục tiêu: Bước đầu đánh giá kết quả kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ áp dụng trên phôi của các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 37 phôi của 11 bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm áp dụng phương pháp chẩn đoán di truyền tiền làm tổ. Sinh thiết phôi được thực hiện trên phôi ngày 3. Sau khi cố định phôi bào, quá trình lai được thực hiện với các mẫu dò ADN bằng phương pháp FISH. Các tín hiệu từ kính hiển vi huỳnh quang của 5 nhiễm sắc thể (13, 18, 21 and X, Y) khảo sát được ghi nhận. Kết quả: Tỷ lệ phôi bất thường NST: 45,9%. Tỷ lệ bất thường dị bội ở cặp NST 21 là cao nhất: 40,93% và thấp nhất ở cặp NST giới tính và cặp NST 13: 13,63%. Tỷ lệ phôi phát triển thành phôi nang sau sinh thiết: 86,49%. Tỷ lệ có thai lâm sàng: 66,67% và tỷ lệ làm tổ: 40,9%. Kết luận: Tỷ lệ bất thường phôi khá cao trong số các phôi được chẩn đoán. Tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai đạt được khá cao khi chuyển các phôi bình thường.
#chẩn đoán di truyền tiền làm tổ #FISH #tỷ lệ mang thai
Ứng dụng kỹ thuật fish trong sàng lọc một số lệch bội nhiễm sắc thể cho chẩn đoán di truyền tiền làm tổChẩn đoán di truyền tiền làm tổ là thuật ngữ chỉ việc sàng lọc những phôi mang bất thường di truyền trước chuyển phôi hoặc sàng lọc trứng trước thụ tinh. Lệch bội NST là một trong những nguyên nhân gây dị dạng, để lại hậu quả nặng nề ở thai nhi, đặc biệt là các đối tượng có nguy cơ cao. Do vậy việc sàng lọc lệch bội hoặc các bất thường di truyền ở những đối tượng thụ tinh trong ống nghiệm góp phần không nhỏ vào việc ngăn chặn những rủi ro này. Trong nghiên cứu, FISH được sử dụng như một kỹ thuật nhằm phát hiện một số lệch bội NST (13, 18, 21, X và Y). Ở đây, 127 phôi ở giai đoạn phân chia 6-8 tế bào ngày 3 được tiến hành sinh thiết. Kết quả cho thấy, 53,6% phôi bình thường về số lượng các cặp NST đem lai, và trong tổng số 46,4% phôi mang bất thường NST có 10% mang hội chứng Patau, 4,1% mang hội chứng Edwards, 18,4% mang hội chứng Down, 4,1%: Turner, 2%: Klinefelter, 20,4%: monosomy và khoảng 41% là các bất thường khác.
#FISH #IVF #lệch bội NST #chẩn đoán di truyền tiền làm tổ
Ứng dụng kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ trong thụ tinh ống nghiệm: hiện trạng và xu hướng Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của việc áp dụng kỹ thuật “chẩn đoán di truyền tiền làm tổ” (PGD) kết hợp cùng lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) có góp phần can thiệp ngăn chặn các đột biến di truyền xuất hiện ngay từ trong phôi, giúp bệnh nhân có cơ hội sinh con mà không phải chấm dứt thai kì và giảm bớt gánh nặng cho toàn xã hội.
Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 5/2016 đến nay tại IVFMD, đã có 32 chu kỳ thực hiện IVF kết hợp PGD; trong đó, có 24 chu kỳ mang bất thường cấu trúc NST sau karyotype với tiền căn sẩy thai liên tiếp (nhóm 1) và 8 chu kỳ mang các đột biến gen lặn liên quan đến bệnh lý thalassemia (nhóm 2). DNA tế bào phôi được thu nhận bằng cách sinh thiết 3-5 tế bào lá nuôi phôi ở giai đoạn phôi nang và sau đó gửi phân tích di truyền bằng kỹ thuật NGS. Phôi được đông lạnh sau khi sinh thiết.
Kết quả: Ở nhóm 1, có 93 phôi với tỉ lệ phôi bình thường, bất thường cấu trúc lần lượt là 57% (53/93), 14% (13/93). Ở nhóm 2, có 47 phôi với tỉ lệ phôi bình thường 80,9% (38/47); trong đó, tỉ lệ phôi không mang đột biến, mang đột biến dị hợp tử và mang đột biến đồng hợp tử tương ứng là 15,8% (6/38); 57,9% (22/38) và 26,3% (10/38). Tỉ lệ thai diễn tiến, sẩy thai và sinh sống sau chuyển phôi trữ lần lượt là 45,8%, 12,5% và 45,8%.
Kết luận: Sự an toàn của sinh thiết phôi nang và quy trình đông lạnh phôi cùng với kỹ thuật NGS cho thấy thực hiện IVF kết hợp PGD có thể áp dụng cho quần thể bệnh nhân có nguy cơ cao về bệnh di truyền.
CHẨN ĐOÁN DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ BỆNH THIẾU MEN GLUCOSE-6-PHOSPHATASE DEHYDROGENASE (G6PD)Thiếu Glucose-6-phosphatase dehydrogenase (OMIM 305900) là bệnh lý thiếu hụt enzyme di truyền phổ biến nhất với số lượng mắc trên toàn thế giới ước tính khoảng 500 triệu người. Bệnh di truyền lặn đơn gen trên nhiễm sắc thể X, gây ra bởi đột biến gen G6PD (Xq28), chịu trách nhiệm mã hoá tổng hợp enzyme Glucose-6-phosphatase dehydrogenase - enzym có vai trò xúc tác cho phản ứng đầu tiên trong chu trình pentose phosphate, tổng hợp NADPH – một chất đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ nhóm sulphydryl của hemoglobin và màng tế bào hồng cầu khỏi sự tấn công của các tác nhân oxy hóa. Các cá thể mắc bệnh sẽ có nguy cơ cao bị huyết tán khi tiếp xúc với các tác nhân oxi hoá. Việc dự phòng bệnh hiện nay đã trở nên khả thi khi các kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ đang dần được áp dụng phổ biến tại Việt Nam, giúp cho những cặp vợ chồng mang gen bệnh có thể sinh con khoẻ mạnh, không mang gen bệnh. Mục tiêu: Hoàn thiện kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ bệnh thiếu men Glucose-6-phosphatase dehydrogenase (G6PD). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Dựa trên kết quả giải trình tự NGS của người con trai mang bệnh, tiến hành giải trình tự gen Sanger tìm đột biến trên mẫu máu của bố, mẹ và con gái cùng 05 mẫu phôi sinh thiết ngày 5 của cặp vợ chồng. Kết hợp tiến hành phân tích di truyền liên kết sử dụng STR để đưa ra kết quả chẩn đoán và qua đó hoàn thiện kỹ thuật. Kết quả: Chúng tôi đã hoàn thiện kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ bệnh thiếu men Glucose-6-phosphatase dehydrogenase (G6PD) và tiến hành chẩn đoán di truyền tiền làm tổ cho một cặp vợ chồng với tiền sử sinh con bị bệnh thiếu men G6PD. Kết quả: một phôi bình thường không mang đột biến; ba phôi mang biến thể G6PD: c.1376G>T (G6PD: p.Arg459Leu) và một phôi bị bệnh.
#G6PD #Bệnh thiếu Glucose-6-phosphatase dehydrogenase
Hiệu quả kết hợp chẩn đoán và sàng lọc di truyền tiền làm tổ trên phôi của bệnh teo cơ tủy Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả kết hợp chẩn đoán và sàng lọc nhiễm sắc thể trên phôi tiền làm tổ của bệnh teo cơ tủy (spinal muscular atrophy – SMA). Đối tượng và phương pháp: 11 cặp vợ chồng có tiền sử sinh con bị bệnh SMA do mất đồng hợp tử exon 7 gen SMNt tham gia làm thụ tinh ống nghiệm. Phương pháp nghiên cứu: Kích thích buồng trứng có kiểm soát, tạo phôi nuôi đến giai đoạn phôi nang. Sinh thiết các tế bào lá nuôi để làm vật liệu di truyền dùng cho chẩn đoán bằng 2 kỹ thuật PCR-RFLP và minisequensing. Phôi không bị bệnh tiến hành sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể trên mẫu WGA (whole genome amplification) bằng giải trình tự gen thế hệ mới NGS (next generation genetic sequensing). Phôi không bị mất đồng hợp exon 7 gen SMNt gây bệnh teo cơ tủy và bình thường nhiễm sắc thể sẽ được chuyển phôi ở chu kỳ sau đó. Kết quả: 49 số phôi nang đủ tiêu chuẩn sinh thiết để thực hiện PGT-M và PGT-A, trong đó có 17 phôi mất đồng hợp tử exon 7 gen SMNt gây bệnh SMA) (34,7%), (32 phôi không bị mất exon 7 gen SMNt nên không gây bệnh SMA). 32 phôi không mắc bệnh SMA được làm sàng lọc (PGT-A) có 20 phôi chuẩn bội (62,5%). 10 gia đình được chuyển một phôi bình thường trong chu kỳ chuyển phôi trữ sau đó, 6 phụ nữ chuyển phôi thành công với tỷ lệ thai lâm sàng 60% (6/10), tỷ lệ phôi làm tổ 60% (6/10), 6 em bé sinh ra khỏe mạnh. Kết luận: PGT-M kết hợp với PGT-A sẽ chọn lựa phôi khỏe, cải thiện tỷ lệ có thai và sinh ra các bé khỏe mạnh.
#Teo cơ tủy #gen SMN #PCR-RFLP #minisequencing #PGT-M #PGT-A
Chẩn đoán đột biến di truyền đơn gen giai đoạn phôi tiền làm tổ (PGT-M) trong loại trừ gen bệnh thalassemia: báo cáo loạt ca Đặt vấn đề: Thiếu máu tán huyết di truyền (thalassemia) là một bệnh lý huyết học đơn gen. Bệnh nhân cần được điều trị suốt đời và có thể tử vong nếu không tuân thủ điều trị Tại Việt Nam, ước tính hiện nay có khoảng 20.000 người bị thalassemia thể nặng, mỗi năm có thêm khoảng 10 triệu người mang gen bệnh và hàng năm, có thêm trên 2.000 trẻ bị bệnh thalassemia chào đời. Kỹ thuật chẩn đoán đột biến di truyền đơn gen giai đoạn phôi tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Testing for Monogenic disorders - PGT-M) ra đời, cho phép các cặp vợ chồng sau khi có phôi từ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON), lựa chọn những phôi không có đột biến gen gây bệnh để chuyển vào buồng tử cung người vợ giúp có thể sinh con không mang bệnh.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của chuyển phôi sau PGT-M trên bệnh nhân vô sinh mang gen bệnh thalassemia.
Phương pháp: Đây là một báo cáo loạt ca, thực hiện trong thời gian từ tháng 02/2017 đến tháng 05/2018 tại Đơn vị Hỗ trợ sinh sản Mỹ Đức (IVFMD), bệnh viện Mỹ Đức. Đối tượng bệnh nhân là những cặp vợ chồng có chỉ định làm TTTON và quá trình sàng lọc cho thấy cả hai có mang gen bệnh. Phôi ngày 5, hình thành sau TTTON, được tiến hành sinh thiết để lấy khoảng 5 tế bào lá nuôi. Các tế bào được gửi phân tích di truyền bằng công nghệ giải trình tự thế hệ mới (Next Generation Sequencing – NGS) qua hai giai đoạn, (1) xác định tình trạng lệch bội và (2) chẩn đoán bất thường đơn gen trên các phôi không lệch bội. Phôi được đông lạnh sau khi sinh thiết và những phôi nào không mang gen bệnh hay ở dạng dị hợp tử mới được sử dụng để chuyển vào buồng tử cung của người vợ. Yếu tố đánh giá kết quả chính là tỷ lệ sinh sống sau một chu kỳ chuyển phôi.
Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu, có 17 cặp bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn nhận loại. Số noãn chọc hút trung bình là 16,7 ± 8,5, với số phôi ngày 5 trung bình là 6,8 ± 4,6. Trong số 79 phôi được sinh thiết, có 50 (63,3%) phôi không bị lệch bội. Trong 50 phôi này, tỷ lệ phôi không mang gen đột biến hay ở dạng dị hợp tử lần lượt là 36% và 56%. Hiện có 7 trường hợp sinh sống được ghi nhận và 1 trường hợp có thai đang ở tuổi thai 33 4/7 tuần.
Kết luận: PGT-M có thể được áp dụng thường quy trên các cặp vợ chồng có mang gen gây bệnh thalassemia nhằm giúp có thể sinh con từ những phôi không mang gen bệnh, hạn chế các gánh nặng về kinh tế, tâm lý cho gia đình và xã hội.
#Thalaasemia #PGT-M #thụ tinh trong ống nghiệm.
The first step evaluation of preimplantation genetic screening in human embryos at IVF Centre of NHOGMục tiêu: Bước đầu đánh giá kết quả kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ áp dụng trên phôi của các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 37 phôi của 11 bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm áp dụng phương pháp chẩn đoán di truyền tiền làm tổ. Sinh thiết phôi được thực hiện trên phôi ngày 3. Sau khi cố định phôi bào, quá trình lai được thực hiện với các mẫu dò ADN bằng phương pháp FISH. Các tín hiệu từ kính hiển vi huỳnh quang của 5 nhiễm sắc thể (13, 18, 21 and X, Y) khảo sát được ghi nhận. Kết quả: Tỷ lệ phôi bất thường NST: 45,9%. Tỷ lệ bất thường dị bội ở cặp NST 21 là cao nhất: 40,93% và thấp nhất ở cặp NST giới tính và cặp NST 13: 13,63%. Tỷ lệ phôi phát triển thành phôi nang sau sinh thiết: 86,49%. Tỷ lệ có thai lâm sàng: 66,67% và tỷ lệ làm tổ: 40,9%. Kết luận: Tỷ lệ bất thường phôi khá cao trong số các phôi được chẩn đoán. Tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai đạt được khá cao khi chuyển các phôi bình thường.
#chẩn đoán di truyền tiền làm tổ #FISH #tỷ lệ mang thai